Sau khi Liên Xô tan rã, các quốc gia hậu cộng sản ở Đông Âu và Trung Á đã giành được độc lập. Tuy nhiên, hệ thống Liên Xô cũ vẫn ảnh hưởng đến sự phát triển chính trị của các nước này. Hầu hết các quốc gia này không chuyển đổi hoàn toàn sang dân chủ mà chuyển thành dạng 'chế độ lai' thiên về độc tài hơn. Các quốc gia này được gọi là 'chế độ lai' vì thể chế chính trị của họ không hoàn toàn theo hình thức dân chủ phương Tây. Mặc dù có quốc hội và đảng đối lập, các thể chế của chế độ hậu Xô Viết lại được mô tả bằng thuật ngữ 'chủ nghĩa tổng thống bảo trợ' của Henry E. Hale. Theo Hale, 'chủ nghĩa tổng thống bảo trợ' được xác định bởi hai yếu tố chính. Thứ nhất, tổng thống được bầu trực tiếp có quyền lực chính thức lớn hơn so với các cơ quan nhà nước khác. Thứ hai, tổng thống cũng nắm giữ một mức độ quyền lực không chính thức cao dựa trên các mối quan hệ bảo trợ - thân hữu rộng khắp trong nền kinh tế và nhà nước. Để chính xác hơn, chúng ta có thể định nghĩa thuật ngữ 'bảo trợ' là việc thực thi quyền lực chính trị chủ yếu thông qua việc chuyển giao tài nguyên có chọn lọc thay vì thông qua các thực tiễn thể chế chính thức, chính trị dựa trên ý tưởng hoặc pháp quyền đã được thiết lập. Tóm lại, việc cấy ghép dân chủ vào các chế độ hậu Xô Viết không thành công do tổng thống nắm giữ quá nhiều quyền lực trong và ngoài thể chế chính trị.
Tuy nhiên, nhiều biến động chính trị đã diễn ra sau những cáo buộc gian lận bầu cử trong các cuộc bầu cử quốc gia từ năm 2000 dường như chỉ ra những bước đột phá dân chủ. Các học giả đã chứng kiến một 'cuộc cách mạng xe ủi' ở Serbia năm 2000, một 'cuộc cách mạng hoa hồng' ở Georgia năm 2003, một 'cuộc cách mạng cam' ở Ukraine vào tháng 12 năm 2004 và sau đó là một 'cuộc cách mạng hoa tulip' ở Kyrgyzstan vào đầu năm 2005. Ngoài bốn cuộc cách mạng này, những biến động chính trị như vậy cũng tác động đến các quốc gia hậu Xô Viết khác với các phản ứng và phong trào chống chế độ liên quan. Mặc dù chỉ có cuộc cách mạng Cam thực sự có màu sắc tượng trưng cho thuật ngữ này, 'cách mạng màu' đã trở thành một thuật ngữ phổ biến để chỉ bốn cuộc cách mạng xảy ra giữa các chuyên gia khu vực và các chính trị gia địa phương. Từ 'cách mạng' không bao gồm hậu quả sau biến động chính trị, mà để xác định rằng các phản ứng và phong trào chống chế độ đã thành công trong việc lật đổ chế độ hiện hành. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là các cuộc cách mạng từ lâu đã được biết đến là có tính chất mô-đun. Thuật ngữ 'mô-đun' trong bài viết này được lấy theo định nghĩa của Tarrow để mô tả sự lan truyền hành động tập thể giữa các nhóm. Các thế hệ sử gia cũ cũng coi các cuộc cách mạng là những hiện tượng có liên quan với nhau, không phải là một tập hợp các trường hợp không liên quan. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ cách mạng màu sắc giữa các học giả chỉ ra rằng họ đã cố gắng giải thích các cuộc cách mạng xảy ra ở hậu Xô Viết Á-Âu là những hiện tượng chính trị sẽ lan rộng ra các quốc gia hoặc khu vực. Điều này là do kể từ những năm 1980, người ta đã công nhận chung rằng dân chủ hóa đã xảy ra theo làn sóng ảnh hưởng đến một khu vực cụ thể trên thế giới, và các học giả như Samuel Huntington đã chứng minh tác động của một trường hợp này đến trường hợp khác. Do đó, coi những cuộc lật đổ chính trị này là những bước đột phá dân chủ, các học giả bắt đầu suy đoán về làn sóng dân chủ hóa thứ tư.
Tiếp nối sự thành công của một loạt các cuộc cách mạng màu, thuật ngữ phổ biến này đã được thiết kế đặc biệt để tạo ra một trường hợp tương đồng. Tổng thống Mỹ George W. Bush đã cố gắng cấy ghép mô hình cách mạng màu ở các nước hậu Xô Viết để chuyển đổi Iraq, khi ông sử dụng thuật ngữ 'Cách mạng Tím' để mô tả sự xuất hiện của nền dân chủ ở Iraq sau cuộc bầu cử lập pháp năm 2005. Các nhà bình luận cho rằng ông cố tình sử dụng thuật ngữ này để tạo ra sự tương đồng với các cuộc cách mạng Hoa hồng và Cam. Do đó, mục đích của bài viết này là nghiên cứu hiện tượng chính trị mô-đun của lực lượng chống chế độ đã tác động đến sự ổn định chính trị ở các quốc gia hậu Xô Viết, đặc biệt là ở Trung Á. Trung Á được đề cập trong bài viết này bao gồm năm nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ: Turkmenistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan và Uzbekistan. Người ta nhận thấy rằng tất cả các quốc gia này ngoại trừ Turkmenistan đều có các cuộc bầu cử cùng thời điểm với Kyrgyzstan (tất cả trong vòng năm 2005); tuy nhiên chỉ có một cuộc cách mạng Hoa tulip ở Kyrgyzstan. Bằng cách rút ra các ví dụ từ cuộc cách mạng Hoa hồng, Cam và Hoa tulip, phần đầu tiên của bài viết sẽ cố gắng khám phá và giải thích bốn tiêu chí cần thiết để một cuộc cách mạng màu xảy ra. Phần thứ hai của bài nghiên cứu sẽ đưa ra mô tả ngắn gọn về những gì đã xảy ra ở các quốc gia Trung Á khác không bao gồm Kyrgyzstan trong năm 2005 và sử dụng bốn tiêu chí làm công cụ đo lường, bài báo cũng sẽ so sánh tình hình của các quốc gia này với tình hình ở Kyrgyzstan. Hy vọng có thể cung cấp một lời giải thích hợp lý tại sao cuộc cách mạng màu không xảy ra ở các quốc gia này và các tiêu chí cho cuộc cách mạng màu như một hiện tượng chính trị mô-đun.
Các chế độ này đều có những trải nghiệm lịch sử tương tự vì chúng đều nằm trong khu vực dễ xảy ra chiến tranh và xâm lược. Sự cai trị của Liên Xô đối với các chế độ này cũng dẫn đến tình trạng di cư liên vùng nhanh chóng từ Liên bang Nga và các thành viên Liên Xô khác. Sự kết hợp của các yếu tố này sau đó đã mang lại sự đa dạng sắc tộc trong các chế độ hậu Xô Viết, đặc biệt là Trung Á. Ví dụ, ở Kazakhstan có nhiều chủng tộc khác như Nga, Ukraine, Uzbek, Đức và Tatar bên cạnh người Kazakh. Hơn nữa, những chủng tộc khác nhau này chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số ở Kazakhstan. Bên cạnh đó, do sự thất bại của nền kinh tế kế hoạch và các yếu tố địa lý, sự phát triển kinh tế ở các khu vực hậu Xô Viết hầu hết là chậm và kém phát triển. Tình hình ở những khu vực đó thậm chí còn nghiêm trọng hơn khi có tham nhũng chính trị giữa các quan chức chính phủ. Ví dụ, một cựu lãnh đạo của đảng đã tan rã, Erkin Kyrgyzstan ước tính rằng khoảng hai phần ba quốc hội mới bao gồm các quan chức và doanh nhân tham nhũng. Hơn nữa, nhiều chế độ hậu Xô Viết mới chỉ trải qua một phần tự do hóa các quy tắc và điều kiện bầu cử; một số ít như Turkmenistan không có bất kỳ sự thay đổi nào. Áp lực của người dân đối với dân chủ hóa ở Uzbekistan và Kazakhstan tương đối yếu do giới tinh hoa đã được thiết lập có thể gây ảnh hưởng lớn đến các cuộc bầu cử bán cạnh tranh. Cảm giác liên kết giữa các trường hợp được tạo ra bởi các đặc điểm thể chế chung, lịch sử, mối quan hệ văn hóa hoặc phương thức thống trị đã làm cho cuộc cách mạng màu trở thành một hiện tượng mô-đun. Tuy nhiên, mặc dù các chế độ hậu Liên Xô hầu hết đều phải đối mặt với những vấn đề tương tự nhau, từ việc nghiên cứu các trường hợp của cuộc cách mạng màu, chúng ta vẫn có thể rút ra các biến số có thể điều chỉnh liệu cuộc cách mạng màu có xảy ra hay không.
Từ các trường hợp của cuộc cách mạng màu, người ta thấy rằng để cuộc cách mạng màu xảy ra hoặc có thể thành công, có bốn tiêu chí phải được thỏa mãn. Thứ nhất, nhà lãnh đạo đương nhiệm của các chế độ phải rất không được lòng dân và phải đối mặt với cái gọi là 'hội chứng vịt què' (lame duck). Thứ hai, các lực lượng chống chế độ được củng cố bởi phương tiện truyền thông đại chúng và ảnh hưởng nước ngoài. Thứ ba, cuộc cách mạng không được mang tính ý thức hệ; nó phải vì lợi ích của sự hội nhập quốc gia tốt hơn, tự do, dân chủ và phát triển kinh tế. Quan trọng nhất, nhu cầu cải thiện trên phải được đông đảo người dân ủng hộ. Cuối cùng, các lực lượng chống chế độ cũng phải được thúc đẩy bởi những bất bình đối với chính phủ tham nhũng được một nhà nước nước ngoài mà người dân không mong muốn hỗ trợ. Các lực lượng chống chế độ xảy ra ở các nước hậu Xô Viết chỉ có thể chuyển hóa thành một cuộc cách mạng màu thành công nếu các tiêu chí này được đáp ứng.
Như đã đề cập ở trên, tiêu chí đầu tiên để cuộc cách mạng màu xảy ra là nhà lãnh đạo đương nhiệm của chế độ phải rất không được lòng dân và đối mặt với cái gọi là "hội chứng vịt què". Theo Hale, hội chứng vịt què đề cập đến sự đào tẩu của giới tinh hoa liên quan đến kỳ vọng của họ về tương lai. Sẽ có một sự đào tẩu của giới tinh hoa khỏi đội ngũ của tổng thống đương nhiệm khi giới tinh hoa tin rằng tổng thống đương nhiệm có thể sẽ rời nhiệm sở. Các yếu tố chính gây ra hội chứng vịt què bao gồm giới hạn nhiệm kỳ tổng thống và dư luận. Trong đoạn đầu tiên, đã đề cập rằng các thể chế chính trị ở các chế độ hậu Liên Xô được đặc trưng bởi "chủ nghĩa tổng thống bảo trợ" nơi tổng thống nắm giữ quyền lực to lớn. Do đó, để một cuộc cách mạng xảy ra trong chế độ như vậy, giới tinh hoa phải tin rằng tổng thống đương nhiệm sẽ sớm mất quyền lực và họ không còn muốn tổng thống đương nhiệm tại vị để họ có dũng khí đào tẩu. Trong trường hợp của Ukraine, trước cuộc cách mạng Cam, tổng thống đương nhiệm Kuchma nhiều lần tuyên bố rằng ông sẽ không tái tranh cử và trên thực tế, ông đã không tham gia cuộc bầu cử tổng thống năm 2005. Ngoài ra, khi Kuchma bước vào nhiệm kỳ thứ hai theo hiến pháp, việc suy giảm ủng hộ dành cho ông khuyến khích các đối thủ. Tất cả những điều này chỉ ra rằng sẽ có một trường hợp hội chứng vịt què và nếu tổng thống đương nhiệm đang trải qua sự ủng hộ thấp. Logic tương tự đã xảy ra ở Georgia và Kyrgyzstan. Ở Georgia, một trong những lý do khiến nhà lãnh đạo đối lập Mikheil Saakashvili giành chiến thắng trong cuộc cách mạng Hoa hồng là do tổng thống đương nhiệm không được lòng dân Eduard Shevardnadze tuyên bố vào tháng 4 năm 2002 rằng ông sẽ tuân thủ giới hạn hai nhiệm kỳ của hiến pháp và rời nhiệm sở vào năm 2005. Sự khởi đầu của hội chứng vịt què này đã khiến nhiều người trước đây ủng hộ giới tinh hoa Shevardnadze quay sang ủng hộ Saakashvili. Cuộc cách mạng Hoa Tulip cũng diễn ra theo mô hình tương tự. Tổng thống đương nhiệm Askar Akaev tuyên bố rằng ông sẽ không cố gắng sửa đổi hiến pháp cho phép ông tìm kiếm nhiệm kỳ thứ ba trong cuộc bầu cử tổng thống dự kiến vào tháng 10 năm 2000. Điều này đã dẫn đến nhiều nhân vật cấp cao ở Kyrgyzstan tham gia phe đối lập, bao gồm cả cảnh sát, những người phụ trách phương tiện truyền thông đại chúng và các thành viên của Tòa án Tối cao. Điều quan trọng cần lưu ý là Akaev không được lòng dân trong nước vì chế độ chuyên chế và tham nhũng từ chính phủ của ông.
Tiêu chí thứ hai là các lực lượng chống chế độ được củng cố bởi phương tiện truyền thông đại chúng và ảnh hưởng nước ngoài. Đoạn này và đoạn tiếp theo sẽ tập trung chủ yếu vào Cách mạng Cam; mặc dù vẫn sẽ đưa ra một số ví dụ từ Cách mạng Hoa hồng, để minh họa cách các ảnh hưởng nước ngoài như các tổ chức phi chính phủ hoặc đại sứ nước ngoài và phương tiện truyền thông đại chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự thành công của cuộc cách mạng màu. Bắt đầu với Cách mạng Cam, người ta thấy rằng xã hội dân sự phát triển mạnh mẽ ở Ukraine cũng như ở Kyrgyzstan. Điều này tạo cơ hội tốt cho sự hỗ trợ của các nhà tài trợ từ Mỹ, các chính phủ châu Âu, Quỹ Quốc gia về Dân chủ và các nhà hảo tâm tư nhân như George Soros.
Trên thực tế, phong trào chống chế độ ở Ukraine đã được chính phủ Mỹ tài trợ và tổ chức, theo tờ The Guardian. Họ tuyên bố rằng Viện Dân chủ Quốc gia của Đảng Dân chủ, Viện Cộng hòa Quốc tế của Đảng Cộng hòa, Bộ Ngoại giao Mỹ và USAID là những cơ quan chính tham gia vào các chiến dịch cơ sở do các nhà hoạt động trẻ tuổi ở Ukraine phát động cũng như tổ chức phi chính phủ Freedom House và Qũy xã hội Mở của Geogre Soros. Chính phủ Mỹ đã chính thức chi 14 triệu USD để tổ chức và tài trợ cho hoạt động của các phong trào chống chế độ. Ngoài ra, Freedom House và NDI của Đảng Dân chủ đã giúp tài trợ và tổ chức 'nỗ lực giám sát khu vực dân sự lớn nhất' ở Ukraine, nơi họ cử 1.000 quan sát viên được đào tạo và tổ chức các cuộc thăm dò ý kiến cử tri sau bầu cử. Điều này rất quan trọng trong việc tổ chức các cuộc thăm dò sau bầu cử vì họ nắm bắt thế chủ động trong cuộc chiến tuyên truyền với chế độ và đặt gánh nặng phản ứng lên chính quyền. Trong khi đó tại Georgia, đại sứ Mỹ trong cuộc cách mạng Hoa hồng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc huấn luyện Mikheil Saakashvilli về cách hạ bệ Eduard Shevardnadze. Bên cạnh ảnh hưởng của nước ngoài, các phương tiện truyền thông đại chúng cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hơn nữa các lực lượng chống chế độ. Trong cuộc Cách mạng Cam, bất chấp sự kiểm soát gần như toàn bộ nội dung chính trị trên truyền hình quốc gia của chính phủ, họ cũng gây áp lực lên các phương tiện truyền thông độc lập, một số tờ báo khách quan và các đài phát thanh địa phương tiếp tục hoạt động. Hơn nữa, các nhà báo cũng phản đối sự kiểm soát và kiểm duyệt của chính phủ, đã phát động các cuộc đình công và biểu tình công khai đòi quyền nói sự thật cho cử tri trong những ngày trước Cách mạng Cam.
Tiêu chí thứ ba sẽ được thảo luận trong đoạn này. Theo đó, tiêu chí này nói rằng cuộc cách mạng không được mang tính ý thức hệ; mà chủ yếu vì mục đích hội nhập quốc gia tốt hơn, tự do, dân chủ và phát triển kinh tế, và nó cũng phải mang tính quần chúng. Nhìn vào Cách mạng Hoa hồng, tổng thống đương nhiệm Eduard Shevardnadze và chính phủ của ông nổi tiếng về tham nhũng. Cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế - xã hội ở Georgia cũng gần đến đỉnh điểm trước cuộc bầu cử. Mô hình tương tự cũng xảy ra với Cách mạng Cam, cuộc bầu cử tổng thống tháng 11 bị OSCE cáo buộc tham nhũng và gian lận bầu cử trên diện rộng. Hơn nữa, tham nhũng đã trở nên tràn lan ở Ukraine sau khi Kuchma đắc cử tổng thống năm 1994. Việc đề cử Yushchenko mang đến cơ hội cải thiện khi ông có khả năng cải thiện nền kinh tế đất nước rất tốt. Ví dụ, ông đã giúp nền kinh tế đất nước tăng trưởng gần 6% trong năm đầu tiên làm thủ tướng vào năm 2000. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng hàng năm của đất nước thậm chí còn tăng lên 9,2%. Do đó, sau khi nhậm chức Thủ tướng, Viktor Yanukovych bị cáo buộc gian lận trong cuộc bầu cử và đã có các cuộc biểu tình và bất tuân dân sự trên toàn quốc. Trong khi suốt giữa những năm 1990, Kyrgyzstan là nước cộng hòa nghèo nhất Trung Á, thật hợp lý khi nghĩ rằng người dân sẽ yêu cầu cải thiện hệ thống chính trị và kinh tế. Ngoài ra, hệ thống giáo dục được thiết lập ở Kyrgyzstan đã đào tạo ra nhiều sinh viên đại học ở Kyrgyzstan 200.000 người trong tổng số 5 triệu dân. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ thất nghiệp do tình hình kinh tế của đất nước hoạt động kém. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng có tỷ lệ sinh viên cao trong Cách mạng Hoa Tulip.
Tiêu chí cuối cùng được đề cập trong bài viết này là các lực lượng chống chế độ cũng được thúc đẩy bởi những bất bình đối với chính phủ tham nhũng được một nhà nước nước ngoài mà người dân không mong muốn ủng hộ. Trong trường hợp này, nhà nước nước ngoài mà người dân không mong muốn ám chỉ Nga. Từ ba cuộc cách mạng màu, chúng ta có thể thấy rằng các nhà lãnh đạo bị lật đổ như Eduard Shevardnadze, Yanukovych và Akaev đều là những nhà lãnh đạo được Nga ủng hộ. Một lời giải thích khả dĩ cho lý do tại sao người dân không yêu cầu các nhà lãnh đạo do Nga ủng hộ, đặc biệt là các chế độ hậu Liên Xô ở Đông Âu, chủ yếu là do vấn đề Tây Âu đối đầu Đông Âu. Người dân ở Đông Âu bắt đầu thích những nhà lãnh đạo nghiêng về phương Tây vì họ sợ rằng sự lãnh đạo hiện tại của đất nước họ có thể dẫn đất nước đi theo con đường bị loại trừ vĩnh viễn khỏi 'châu Âu' nói chung và các thể chế châu Âu như Liên minh châu Âu. Trong cuộc Cách mạng Hoa hồng, Saakashvili đã mô tả Cách mạng Hoa hồng là cuộc cách mạng Nhung kiểu châu Âu, trong khi ở Ukraine, Yushchenko trong bài phát biểu nhậm chức của mình nói rằng ông có thể dẫn dắt đất nước 'gia nhập vào Tây Âu'. Việc sử dụng ngôn ngữ này của các nhà lãnh đạo đối lập trong các cuộc cách mạng màu từ những ví dụ này cho thấy họ thân phương Tây hơn là thân Nga về phía Đông. Ngoài ra, trước cuộc bầu cử ở Ukraine, một nhà tư vấn chính trị người Nga Vyacheslav Nikonov nhận xét rằng nếu Yushchenko thắng cử tổng thống thì điều đó có nghĩa là Ukraine sẽ trở thành thành viên NATO trong vài năm tới. Nhưng nếu dưới sự lãnh đạo của Yanukovych, Ukraine sẽ là một phần của không gian kinh tế chung do Nga, Belarus và Kazakhstan tạo ra. Bên cạnh khuôn khổ Đông và Tây, người dân tự giải thoát mình khỏi ảnh hưởng của Nga vì họ đã quá tham gia vào chính trị trong nước của họ. Ở Georgia, ảnh hưởng của Nga đã dẫn đến chủ nghĩa ly khai ở quốc gia cụ thể đó. Ba chế độ riêng biệt (Abkhazia, Nam Ossetia và Ajara) tồn tại cùng thời kỳ với chế độ ở quốc gia cụ thể này trước cuộc cách mạng màu là một minh chứng cho điều này.
Nhìn vào dòng thời gian và cách thức diễn ra của mỗi cuộc cách mạng màu, chúng ta có thể thấy rằng cách mạng màu có thể là một hiện tượng mô-đun, vì những ví dụ thành công trước đó đã có tính lây lan. Hơn nữa, làn sóng cách mạng màu thậm chí còn tác động đến các thể chế chính trị của nhiều quốc gia ở Trung Á. Tuy nhiên, mặc dù có tác động về mặt chính trị ở Trung Á, các học giả vẫn đang tự hỏi tại sao cách mạng màu chỉ xảy ra và thành công ở Kyrgyzstan mà không phải ở các quốc gia khác ở Trung Á. Từ kết quả bầu cử của Kazakhstan (Kazakhstan là quốc gia cuối cùng có bầu cử tổng thống vào năm 2005), chúng ta có thể thấy rằng tác động ngày càng yếu đi theo thời gian. Do đó, phần này sẽ chủ yếu mô tả làn sóng cách mạng màu đã tác động như thế nào đến các quốc gia ở Trung Á trong năm 2005 và đánh giá lý do tại sao cách mạng màu không xảy ra ở những quốc gia đó.
Bắt đầu với tình hình ở Uzbekistan. Vài tháng sau Cách mạng Hoa Tulip, cuộc khủng hoảng Andijan (còn được gọi là vụ thảm sát Andijan) đã xảy ra vào tháng 5 năm 2005. Nó bắt đầu với các cuộc bạo loạn dữ dội giữa người dân địa phương ở Andijan khi 23 doanh nhân địa phương bị bắt và bị buộc tội 'chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cơ yếu và ly khai'. Những người biểu tình sau đó đã tấn công một nhà tù và thả tất cả các tù nhân. Vào ngày 13 tháng 5, chính phủ Uzbekistan đã giải tán hàng ngàn người biểu tình bằng bạo lực, giết chết hàng trăm người và làm bị thương nhiều người khác. Sự việc này khiến ít nhất 500 người phải chạy trốn khỏi Uzbekistan sang nước láng giềng Kyrgyzstan. Tuy nhiên, sự việc này không mang lại thêm ý nghĩa chính trị ở Uzbekistan. Một trong những lý do là vì chính phủ Uzbekistan đã có thể chống lại ảnh hưởng từ nước ngoài. Sau khi các tổ chức phi chính phủ chỉ trích cuộc đàn áp bạo lực của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ có trụ sở ở phương Tây đã ngừng hoạt động tại Uzbekistan. Tổ chức Winrock International, nơi cung cấp chuyên môn cho nông dân Uzbekistan, đã bị tòa án Uzbekistan ra lệnh rời khỏi Uzbekistan vì đã “phỉ báng các giá trị quốc gia”. Các tổ chức khác như Eurasia Foundation, Radio Free Europe và Freedom House cũng bị ra lệnh hoặc gây áp lực buộc phải rời khỏi đất nước. Do đó, sự việc này không phát triển thêm thành một cuộc cách mạng màu khác ở Trung Á vì nó chưa đáp ứng tiêu chí thứ hai mà tất cả các quốc gia cách mạng màu đều có, đó là các lực lượng chống chế độ được truyền thông và các ảnh hưởng nước ngoài củng cố. Như chúng ta có thể thấy, chính phủ ngay lập tức cắt đứt ảnh hưởng từ xã hội dân sự nước ngoài sau vụ việc Andijan. Do đó, không thể có chuyện truyền thông và các ảnh hưởng nước ngoài tiếp tục hướng các lực lượng chống chế độ.
Quốc gia tiếp theo được thảo luận là Tajikistan, nơi cũng có một cuộc bầu cử quốc hội giống như Kyrgyzstan trong khoảng thời gian từ 27 tháng 2 đến 13 tháng 3 năm 2005. Do ảnh hưởng của cách mạng màu, trước cuộc bầu cử, lãnh đạo đảng đối lập tuyên bố hy vọng sẽ thấy sự từ chức tự nguyện của Tổng thống Tajikistan đương nhiệm, Rahmonov, nếu không họ sẽ lên kế hoạch cho một 'cuộc cách mạng tím' vào mùa xuân. Tuy nhiên, khi kết quả bầu cử được công bố, Đảng Dân chủ Nhân dân Tajikistan do Tổng thống Emomali Rahmonov đứng đầu đã giành được đa số ghế trong Quốc hội. Trong trường hợp này, lý do cách mạng màu không diễn ra ở Tajikistan là vì tiêu chí thứ ba đã đề cập không có nhu cầu lớn về hội nhập quốc gia, tự do, dân chủ và phát triển kinh tế. Đất nước đã trải qua một cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài từ năm 1992 đến năm 1997. Kể từ khi kết thúc chiến tranh, sự ổn định chính trị mới được thiết lập và viện trợ nước ngoài đã cho phép nền kinh tế của đất nước phát triển. Sau chiến tranh, người dân sợ hãi về sự thay đổi và tình hình hiện tại không cần phải thay đổi. Do đó, không có phản ứng lớn và không có nhu cầu cải thiện là những lý do chính khiến cách mạng màu không xảy ra ở Tajikistan. Mặt khác, cách mạng màu đã không tạo ra bất kỳ tác động nào đối với Turkmenistan do cấu trúc chính trị của nước này. Đó là một quốc gia độc đảng với một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, Saparmurat Niyazov là Tổng thống trọn đời ở Turkmenistan. Không có hội chứng vịt què ở quốc gia này và Niyazov dự kiến sẽ cai trị cho đến khi ông qua đời. Ngoài ra, nhân quyền và xã hội dân sự bị hạn chế nghiêm trọng ở Turkmenistan. Không có phe đối lập chính trị nào được phép và chính phủ đối xử với các hoạt động tôn giáo từ hạn chế chặt chẽ đến cấm hoàn toàn và không có tự do báo chí. Tình hình ở Turkmenistan không cho phép đáp ứng tiêu chí thứ nhất và thứ hai, vì vậy cách mạng màu đã không xảy ra ở Turkmenistan.
Kazakhstan là quốc gia Trung Á cuối cùng tổ chức bầu cử vào năm 2005. Các học giả quốc tế đã suy đoán liệu đây có phải là quốc gia tiếp theo có cách mạng màu hay không vì nó nằm cạnh Kyrgyzstan. Tuy nhiên, Tổng thống Nazarbaev đã thắng cử. Có ba lý do khiến cách mạng màu không xảy ra ở Kazakhstan. Thứ nhất, yếu tố kinh tế xã hội luôn ổn định. Nền kinh tế của nó luôn phát triển kể từ khi Nazarbaev nắm quyền ở quốc gia cụ thể đó. Kể từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng GDP của đất nước luôn tiếp tục ở mức hơn 9% và hiện nó được Ngân hàng Thế giới xếp vào loại quốc gia có thu nhập trung bình cao. Người dân không cần phải yêu cầu cải thiện các thể chế chính trị và tài chính của mình. Thứ hai, không có hội chứng vịt què ở Kazakhstan vì Nazarbaev không tuyên bố rằng ông sẽ từ bỏ sự nghiệp chính trị của mình. Ông có nhiều người ủng hộ và người dân mong ông tiếp tục lãnh đạo đất nước. Cuối cùng, Nazarbaev đã thực hiện các biện pháp để ngăn chặn ảnh hưởng từ xã hội dân sự và các phương tiện truyền thông đại chúng nước ngoài. Vào ngày 14 tháng 7 năm 2005, Nazarbaev đã ký một sửa đổi luật yêu cầu người nước ngoài phải chịu trách nhiệm về việc tài trợ hoặc giúp đỡ một ứng cử viên chính trị cụ thể. Khi phát hiện họ tham gia vào các hoạt động đó, họ sẽ bị xử phạt về tài chính và trục xuất khỏi đất nước. Ngoài ra, người nước ngoài không được phép làm việc cho bất kỳ tờ báo hoặc kênh truyền hình nào của Kazakhstan.
Tóm lại, cách mạng màu chỉ có thể là hiện tượng mô-đun nếu đáp ứng đủ bốn tiêu chí trên. Điều này là do ba cuộc cách mạng màu đã dẫn chứng có chung đặc điểm của bốn tiêu chí này. Từ trường hợp của tất cả các nước Trung Á ngoại trừ Kyrgyzstan, người ta thấy rằng ngay cả khi có các lực lượng chống chế độ, cách mạng màu đã không xảy ra ở các quốc gia đó vì không phải tất cả bốn tiêu chí đều được đáp ứng. Mặc dù có thể có các biến số khác cũng có thể xác định cách mạng màu, nhưng bốn tiêu chí này vẫn có thể là điều kiện cơ bản để cách mạng màu xảy ra.
Nguồn: Poh Phaik Thien, Explaining the Color Revolutions, E-IR.